Hơn một tháng qua, trước khi các nhà xuất khẩu cà phê trong nước ồ ạt ký hợp đồng xuất khẩu cà phê vụ mới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa) đã nhiều lần đưa ra khuyến cáo các nhà xuất khẩu cà phê không nên ký hợp đồng xuất khẩu theo phương thức chốt giá sau, nhằm phòng tránh rủi ro như đã từng vấp phải trong vài năm gần đây, mà đặc biệt là trong niên vụ cà phê 2011/12.
Chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của chuyên gia cà phê Nguyễn Quang Bình để độc giả hiểu rõ hơn những rủi ro gặp phải của cả hai phương thức xuất khẩu cà phê là chốt giá trước và chốt giá sau.
Giá cà phê chao đảo trong tháng 10 và đầu tháng 11,
khi nông dân bắt đầu vào vụ thu hoạch niên vụ 2011/12.
Một trong những biện pháp ngăn chặn rủi ro được nói đến nhiều là khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối, rằng không nên ký hợp đồng “trừ lùi” và chỉ bán hợp đồng có “tiền tươi” khi đã có hàng trong tay.
Trong xuất khẩu cà phê, trên thị trường quốc tế và ngay tại Việt Nam, người mua và người bán hàng ngày vẫn sử dụng một loại hợp đồng được gọi là “trừ lùi”. Thực ra, đây là một loại hợp đồng tồn tại song song với hợp đồng có giá mua bán thực rõ ràng mà theo đó 2 bên mua và bán quyết định một mức giá đơn vị nhất định cho hợp đồng đó.
Với hợp đồng có giá đơn vị (unit price) thực khi ký kết, trên thị trường thường được gọi là hợp đồng có giá tiền trao cháo múc, hay “outright” trong tiếng Anh. Dù sao, đây cũng là một hợp đồng giao sau dựa trên chênh lệch với giá robusta Liffe mà có, nhưng giá được quyết định ngay, cụ thể, nên cũng có người gọi là hợp đồng có giá “chốt trước” hay có giá “đã chốt”.
Còn hợp đồng “trừ lùi hay cộng tới”, tức là hợp đồng mà theo đó 2 bên mua và bán thỏa thuận một mức trừ hay cộng (differentials) dựa trên giá chuẩn robusta giao dịch ở sàn Liffe để hai bên quyết định giá theo thỏa thuận khi thấy an toàn cho các vị thế mua hay bán của mình. Chính vì thế, với phương thức này, cả 2 bên có cơ hội giảm thiểu rủi ro rất lớn khi giá đi nghịch với dự đoán giá của mình. Các thương vụ kiểu này được gọi là hợp đồng có giá “chốt sau” (tiếng Anh “ptbf” viết tắt của cụm từ “price to be fixed”).
Trong kinh doanh cà phê chuyên nghiệp, người ta thường bán giá “chốt trước” khi giá có khuynh hướng xuống (bear markets); ngược lại, hợp đồng “chốt sau” sẽ rất có lợi trong thị trường có khuynh hướng giá lên (bull markets). Thỉnh thoảng, giới kinh doanh có thể đoán được giá tăng hay giảm với cách mua bán của các nhà kinh doanh: nếu bán “chốt trước” nhiều, thị trường sẽ hiểu giá sẽ xuống, nếu bán “chốt sau” nhiều, tức có người cầu mong cho giá tăng.
Như vậy, khuyến cáo không nên bán “trừ lùi” hay “giá chốt sau” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cũng như Vicofa sẽ được hiểu như sau: thị trường có khuynh hướng xuống trong niên vụ này (điều này, chắc chẳng ai muốn).
Cũng nhớ rằng, trong niên vụ vừa qua (2011/12), Vicofa cũng đã từng khuyến cáo không nên bán “trừ lùi” nhưng khổ nỗi có rất nhiều ngân hàng không chấp thuận cấp tín dụng cho các hợp đồng “chốt trước” vì giá đã bán quá thấp, xuất khẩu sẽ thua lỗ, không đòi được nợ. Chính vì vậy, hàng loạt nhà xuất khẩu đã phải xù hàng không giao cho khách mua, gây mất uy tín lớn cho ngành cà phê.
Có nhiều công ty đã theo lời khuyên của Vicofa bán giá “chốt trước” ở các mức 1.900-1.950 đô la/tấn vì tưởng rằng giá như thế là đã được. Song, ngay lập tức, giá nhảy cao liên hồi từ đầu niên vụ đến hết niên vụ, đẩy giá trong nước lên theo, người bán không gom hàng được để giao cho người mua nước ngoài, kéo theo thua lỗ, xù hàng.
Nên lời khuyên “không nên bán trừ lùi” đã gây tác hại và đưa đến thua lỗ rất lớn nếu như ai “chịu khó” nghe theo lời khuyên này. Để chứng minh, người viết giả sử hôm nay có nhà xuất khẩu bán giá chốt trước với mức 1.750 đô la/tấn (tức trừ 56 đô la/tấn so với giá tháng 1-2012 Liffe) cho giao hàng tháng 12-2011, vì nghĩ rằng giá còn xuống nữa. Nhưng một tuần sau, vì lý do gì đó giá cà phê trên kỳ hạn tăng lên mức 2.000 đô la/tấn, kéo giá trong nước tăng tương ứng.
Như thế, nhà xuất khẩu phải giao hàng với giá 1.750 đô la/tấn (có khi gom hàng của nông dân 1.950 đô la/tấn) thay vì có thể “chốt sau” ở mức cao hơn để giảm lỗ.
Rõ ràng, giá xuống trong thực tế hiện nay không phải do ta đã ký quá nhiều hợp đồng có giá “chốt sau”.
Đối với thị trường bị đầu cơ tài chính luôn rình rập và khuynh loát, vấn đề nắm bắt khuynh hướng thị trường để bán theo loại hợp đồng có giá chốt trước hay chốt sau, nên để các doanh nghiệp tự quyết lấy. Họ quá biết với một tỉ lệ tương đối nào họ sẽ bán ra theo từng phương cách để tránh được rủi ro về giá.
Tóm lại, tuy là một nước xuất khẩu robusta cực kỳ lớn, về giá, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có khả năng giữ được theo ý mình để khả dĩ giúp nông dân vững tâm sản xuất và chính họ sẽ tạo điều kiện tốt nhất để giữ được vị trí xuất khẩu cà phê robusta số 1 của Việt Nam trên thế giới.
Phuong Uyen