Sáng nay (11/9), giá cà phê nhân xô Đắk Lắk, sau khi không đổi ngày hôm qua, đã giảm 1 triệu đồng/tấn xuống 39,700 triệu đồng/tấn.
Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 50 USD từ 1.998 USD/tấn hôm qua xuống 1.948 USD/tấn.
Giá cà phê trên thị trường Liffe London và Ice New York tiếp tục giảm.
Thị trường London: Trên sàn Liffe, giá cà phê Robusta các kỳ hạn hôm nay, nối đà giảm phiên giao dịch hôm qua, đã giảm mạnh 49-50 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 50 USD, tương đương -2,51%, xuống 1.996 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 50 USD/tấn, tương đương -2,48%, xuống 2.018 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 50 USD/tấn, tương đương -2,47%, xuống 2.028 USD/tấn.
Thị trường New York: Tương tự sàn Liffe London, trên sàn ICE, giá cà phê Arabica các kỳ hạn đã có phiên giảm thứ 4 liên tiếp trong tuần, khi giảm 11,1-11,35 cent/pound. Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 11,1 cent/pound xuống 177 cent/pound, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 11,35 cent/pound xuống 181,25 cent/pound, và kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 11,3 cent/pound xuống 185,3 cent/pound.
Giới thương nhân dự đoán xuất khẩu cà phê robusta tháng 9 của Việt Nam đạt 1,67-2 triệu bao, cao hơn 1,5 triệu bao của tháng 8, tuy nhiên, phần lớn là đáp ứng các hợp đồng đã ký thay vì hợp đồng mới.
Thị trường nội địa Việt Nam khá sôi động trong vài tuần qua khi nông dân và thương nhân đẩy mạnh việc xả bán hàng tồn kho trước khi niên vụ mới bắt đầu vào tháng 10. Sản lượng cà phê niên vụ hiện tại ước đạt 27 triệu bao, trong đó 96% là cà phê robusta.
Hôm qua không có tin tức gì đáng kể về cà phê Brazil, ngoài việc các vùng trồng cà phê Brazil đang có nắng mùa xuân và chờ đợi những cơn mưa được dự báo sẽ đến trong vài tuần tới.
Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 9/9 giảm 16.670 bao xuống 2.375.584 bao, trong khi số bao chờ đánh giá và phân hạng tăng 18.150 bao lên 39.030 bao.
Khối nhà sản xuất Mexico và Trung Mỹ tiếp tục thống trị trữ lượng cà phê trên sàn New York khi đóng góp 1.378.208 bao, chiếm 58,04%; tiếp theo là Peru với 481.916 bao, chiếm 20,29%; khối châu Phi gồm Burundi, Rwanda, Tanzania và Uganda với 333.745 bao, chiếm 14,05% và Colombia với 114.222 bao, chiếm 4,81%, số còn lại thuộc về Ấn Độ với 63.633 bao và Brazil 2.860 bao.