Sáng nay (15/11), giá cà phê nhân xô tỉnh Đắk Lắk, sau 4 phiên tăng liên tiếp trong tuần, giao dịch không đổi ở 41,000 triệu đồng/tấn.
Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 1 USD/tấn từ 2.048 USD/tấn hôm qua xuống 2.047 USD/tấn.
Giá cà phê trên thị trường ICE Futures Europe và ICE New York diễn biến trái chiều.
Thị trường London: Trên sàn ICE Futures Europe, trái với phiên hôm qua, giá cà phê robusta các kỳ hạn không đổi hoặc giảm nhẹ 1 USD/tấn.
Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 1 USD/tấn (-0.05%) xuống 2.074 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 1 USD/tấn (-0,05%) xuống 2.074 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 1 USD (-0,05%) xuống 2.077 USD/tấn; trong khi Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá không đổi ở 2.088 USD/tấn.
Thị trường New York: Trái với diễn biến của sàn ICE Futures Europe, trên sàn ICE New York, giá cà phê arabica các kỳ hạn tiếp tục tăng 3,2-3,25 cent/pound.
Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 12 giá tăng 3,25 cent/pound lên 192 cent/pound; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 3,2 cent/pound lên 196,35 cent/pound; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 3,25 cent/pound lên 198,8 cent/pound; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 3,25 cent/pound lên 201 cent/pound.
Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa) ngày 14/11 đã đưa ra dự báo sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2014-2015 có thể giảm 20-25% do điều kiện thời tiết khô hạn, sương muối và diện tích cà phê già cỗi.
Cơ quan phân tích Brazil Safras e Mercado ước tính tính đến cuối tuần trước có đến 61% sản lượng cà phê vụ mới của Brazil đã được bán, cao hơn so với 49% cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, với ước tính sản lượng cà phê vụ mới đạt 48,9 triệu bao, thì lượng đã bán (61%) chỉ đạt 29,75 triệu bao.
Mặc dù còn quá sớm và những cơn mưa đã phần nào cải thiện triển vọng sản lượng cà phê niên vụ 2015 của Brazil, nhưng các dự báo trong nước vẫn khá khiêm tốn, chỉ dao động 40-48 triệu bao.
Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 13/11 tăng 1.182 bao lên 2.366.645 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng tăng 1.545 bao lên 15.662 bao.
Mexico và Trung Mỹ tiếp tục thống lĩnh trữ lượng cà phê arabica có chứng chỉ với 1.357.246 bao, chiếm 57,35% tổng lượng lưu kho. Dẫn đầu là Peru với 465.927 bao (19,69%), tiếp đến Nam và Trung Mỹ 140.349 bao (5,93%), châu Phi 336.709 bao và Ấn Độ 61.527 bao.