Cà phê Đắk Lắk – Xem giá cafe và tin tức Đắk Lắk mới nhất

Kiến nghị ông Chánh án, liên quan đến án ma túy

Ngày 13/10/2015, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Đắk Lắk ban hành Công văn số 963/VKS-P7 về việc đề nghị ông Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo khắc phục vi phạm trong nội dung quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm (HSST). Trong công văn nêu rõ:

Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, trong thời gian qua, VKSND tỉnh Đắk Lắk kiểm sát một số bản án HSST của một số TAND huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh Đắk Lắk đã xét xử một số bị cáo do VKSND huyện, thị xã, thành phố truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nhận thấy: Trong phần “Quyết định” của nhiều bản án đã vi phạm nghiêm trọng khoản 3 Điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, như sau:

Khoản 3 Điều 224 BLTTHS quy định “Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự…”.

Mẫu bản án HSST ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao cũng ghi rõ:

“27. Trong phần này ghi các quyết định của Tòa án và quyền kháng cáo đối với bản án như sau:

a. Trong trường hợp bị cáo có phạm tội:

Tuyên bố bị cáo (các bị cáo)… phạm tội (can tội) …(bị cáo nào phạm tội nào thì ghi phạm tội đó;

Áp dụng điểm,… khoản… Điều… của Bộ luật hình sự…

b. Trong trường hợp bị cáo không phạm tội:

Căn cứ vào khoản… Điều 107 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo không phạm tội;…”.

Thế nhưng, trong phần “Quyết định” của một số bản án HSST của một số TAND huyện, thị xã, thành phố sau đây đã ghi như sau:

Có 04 bản án HSST của TAND thành phố Buôn Ma Thuột ghi áp dụng khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) tuyên miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) cho bị cáo. Cụ thể là: Bản án HSST số 278/2015/HSST ngày 21/9/2015, đối với 02 bị cáo là Cao Văn Nghĩa và Vũ Văn Hải; Bản án HSST số 286/2015/HSST ngày 23/9/2015, đối với bị cáo Bùi Thị Hồng Phương; Bản án HSST số 290/2015/HSST ngày 25/9/2015, đối với bị cáo Ngô Minh Toàn và Bản án HSST số 291/2015/HSST ngày 25/9/2015, đối với bị cáo Vũ Hoàng Nguyên;

Bản án HSST số 21/2015/HSST ngày 17/9/2015 của TAND huyện Krông Ana, ghi áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS. Tuyên bố miễn TNHS cho bị cáo Lê Nhanh.

Bản án HSST số 48/2015/HSST ngày 25/9/2015 của TAND thị xã Buôn Hồ tuyên bố bị cáo Dương Quý Dương được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 4 Điều 8, khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự.

Bản án HSST số 47/2015/HSST ngày 28/9/2015 của TAND huyện Krông Búk cũng áp dụng khoản 4 Điều 8 và Điều 25 BLHS để miễn TNHS cho 03 bị cáo Nguyễn Văn Nhỏ, Đậu Văn Giáp và Nguyễn Viết Cường.

Bản án HSST số 57/2015/HSST ngày 17/7/2015 của TAND huyện Ea H’leo thì ghi “Áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự…tuyên bố: Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Văn Lý về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Như vậy, vi phạm nghiêm trọng pháp luật trong các bản án HSST của các TAND vừa nêu trên là đều không “xác định” (quy định tại khoản 3 Điều 224 BLTTHS) hay không “tuyên bố” (quy định tại Nghị quyết số 04 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao) các bị cáo bị TAND đó đưa ra xét xử “có phạm tội hay không”.

Ngoài ra còn thấy, việc các bản án HSST của các TAND nêu trên căn cứ khoản 4 Điều 8 và khoản 1 Điều 25 BLHS để quyết định miễn TNHS cho các bị cáo là vừa trái pháp luật, lại vừa mâu thuẫn, bỡi lẽ khoản 4 Điều 8 BLHS ghi rõ “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Như vậy, các bản án có lập luận và căn cứ khoản 4 Điều 8 BLHS thì phải căn cứ khoản 2 Điều 107 BLTTHS để tuyên bố bị cáo không phạm tội mới đúng pháp luật. Còn miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLHS thì chỉ áp dụng đối với người đã phạm tội, nhưng “do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Đối với loại tội phạm tàng trữ trái phép chất ma túy là loại tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội, nên không thể coi hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa để miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 25 BLHS được.

Vì vậy, bên cạnh việc các VKSND huyện, thị xã, thành phố đã ban hành các kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các bản án HSST trái pháp luật nêu trên thì, để tình trạng vi phạm như đã nêu trên không còn tiếp diễn, Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk đề nghị đồng chí Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk chỉ đạo sớm khắc phục các vi phạm nêu trên ở một số TAND huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh Đắk Lắk./.

Exit mobile version